phải trả người lao động
Tài khoản 334 - Phải trả người lao động, có 2 tài khoản cấp 2: - Tài khoản 3341 - Phải trả công nhân viên: Phản ánh các khoản phải trả và tình hình thanh toán các khoản phải trả cho công nhân viên của doanh nghiệp về tiền lương, tiền thưởng có tính chất lương, bảo
Lo lắng cho sức khoẻ của người bị đâm phải đã đành, con số viện phí và đền bù tai nạn cũng khiến nhiều người vô tình gây ra tai nạn rơi vào cảnh lao đao. Anh Hà Tú Long (Bình Dương) kể lại, đầu năm 2022, do đi đường bất cẩn anh đã gây tai nạn cho một người đi xe máy khác. Người bị thương khá
Mức cho vay tối đa bằng mức lương tối thiểu vùng đối với số NLĐ theo thời gian trả lương ngừng việc thực tế tối đa 3 tháng, thời hạn vay vốn dưới 12 tháng. Ngoài ra, NSDLĐ phải tạm dừng hoạt động do yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng chống
Riêng những lao động nước ngoài di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp và lao động nước ngoài đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định thì không phải tham gia BHXH bắt buộc. Mức đóng BHXH vào quỹ hưu trí, tử tuất cho người nước ngoài được căn cứ trên tiền lương tháng đóng
Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này." Về việc nghỉ không hưởng lương, Bộ luật này quy định: "Điều 116. Nghỉ việc riêng, nghỉ không hưởng lương 1. Người lao động được nghỉ việc riêng mà vẫn hưởng nguyên lương trong những trường hợp sau đây: a) Kết hôn: nghỉ 03 ngày;
Leute In Der Umgebung Kennenlernen App. Bộ trưởng Đào Ngọc Dung khẳng định nếu giữ thời gian đóng BHXH 20 năm thì người lao động không thể chờ đợi, cần giảm xuống 15 hoặc 10 năm. Sáng 6/6, Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung - thành viên Chính phủ đầu tiên đăng đàn trả lời chất vấn trước Quốc hội. Trong hơn ba tiếng, ông Dung đã thẳng thắn giải đáp nhiều câu hỏi của đại biểu kèm theo số liệu, dẫn chứng cụ đề rút bảo hiểm xã hội BHXH một lần nữa được đại biểu Quốc hội đặc biệt quan tâm. Bà Trần Thị Diệu Thúy Chủ tịch Liên đoàn Lao động TP HCM nêu thực trạng làn sóng rút BHXH một lần trong công nhân lao động thời gian qua không giảm mà còn có dấu hiệu gia tăng, đặc biệt tăng cao khi có thông tin sắp sửa luật. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng này, trong đó lớn nhất là công nhân bất an với sự ổn định của chính sách BHXH."Công nhân coi BHXH như của để dành nhưng lo sợ chính sách mới làm hạn chế quyền tự quyết với món tiền của mình và lương hưu sau này không đủ sống. Giải pháp xử lý vấn đề này ra sao?", bà Thúy chất vấn. Đại biểu Trần Thị Diệu Thúy. Ảnh Media Quốc hội Ông Dung cho biết trước năm 2019, số lao động rút BHXH bình quân mỗi năm nay đã lên tới Người rời đi tương đương với số tham gia trở lại khiến nguy cơ hiện hữu là không đảm bảo an sinh cho người già và hệ thống không bền trưởng nêu bốn lý do khiến lao động chọn rời bỏ hưu trí. Thứ nhất, vì thu nhập thấp và đời sống khó khăn. Phần lớn người rút BHXH là công nhân, rất ít công chức viên chức. Khu vực phía Nam chiếm tới 72% trong khi miền Bắc và Trung rất là không có nước nào cho rút BHXH một lần dễ như Việt Nam. Ông nhắc lại lịch sử khi sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Điều 60 hạn chế rút BHXH một lần nhưng công nhân phản đối. Quốc hội sau đó ban hành Nghị quyết 93 cho phép lao động được hưởng nếu có nhu cầu."Tôi đã mời cả chuyên gia quốc tế về bày mưu tính kế để hạn chế tình trạng này. Vị này nói Việt Nam rất hào phóng trong việc cho hưởng lương hưu tối đa 75% lẫn cho rút BHXH một lần, giờ sửa rất khó. Quốc tế chỉ cho rút khi lao động mắc bệnh nan y và định cư nước ngoài. Luật đã cho rút thì giờ khó mà cấm được", ông là quyền lợi khi rút BHXH một lần rất cao. Lao động chỉ đóng 8% nhưng được hưởng toàn bộ phần đóng của doanh nghiệp và nhà nước. Có nhiều trường hợp dù chưa muốn rút nhưng thấy lợi ích nhiều nên rút hết. Nhưng rời đi rồi không có nghĩa là không trở lại, theo ông Dung, 1/3 trong số lao động từng rút BHXH sau đó tiếp tục tham là việc tổ chức tuyên truyền chưa tốt. Ông lấy ví dụ Hà Nội tuyên truyền cứ 10 người đi rút thì thuyết phục được 6 người trở lại; TP HCM, Đồng Nai cũng có một phần không rút nữa sau khi được tuyên trưởng cho biết, Luật BHXH đang sửa đổi theo hướng không hạn chế mà tăng quyền lợi cho người lao động, phương án thế nào thì Quốc hội sẽ bàn kỹ trong kỳ họp hài lòng với phần trả lời của Bộ trưởng, đại biểu Trần Thị Diệu Thúy tranh luận, nếu lao động rút bảo hiểm do tuyên truyền thì các đơn vị sẽ tiếp thu để điều chỉnh. Nhưng lao động ở TP HCM mong muốn chính sách BHXH phải nhất quán, ổn định lâu dài. "10 năm sửa luật lại có phương án về BHXH khác đi, dẫn đến sự không an tâm của người lao động về đóng BHXH nên họ phải tính toán với việc rút một lần. Bộ trưởng nói sửa luật theo hướng tăng quyền lợi, vậy đó là quyền lợi gì?", bà chất lại, ông Dung nói trong các hạn chế thì có việc chưa quan tâm đầy đủ tuyên truyền với người lao động, vì nếu làm tốt thì chắc chắn thời gian qua tình trạng rút BHXH một lần không như vậy. Do đó, các chính sách phải mang tính tổng thể."Người lao động nếu cứ đóng 20 năm thì họ không chờ đợi được đâu, tôi xin nói thật như thế", ông Dung nói, phân tích rằng với ngành thâm dụng lao động, kéo dài đóng bảo hiểm xã hội 20 năm mà với nam đủ 62 tuổi mới nghỉ hưu thì rất khó. Ông muốn giảm số năm đóng bảo hiểm xã hội xuống 15 năm hoặc còn 10 năm, nhưng nguyên tắc là đóng ít thì sẽ hưởng trưởng cho rằng dù bàn nhiều giải pháp, tình trạng rút bảo hiểm một lần rất khó dừng lại. Bộ trưởng Đào Ngọc Dung trả lời chất vấn. Ảnh Phạm Thắng Bà Nguyễn Thị Thanh Cầm Thường trực Ủy ban Xã hội đề nghị Bộ trưởng cho biết Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi sẽ khắc phục thế nào để rút ngắn tỷ lệ hưởng lương hưu giữa nam và nữ? Giải pháp căn cơ hạn chế rút BHXH một lần?Ông Dung cho biết dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội mới lấy ý kiến xong, đang hoàn thiện để sớm trình cấp có thẩm quyền. Sau hai tháng, dự thảo tiếp nhận hơn 380 ý kiến của các đơn vị, cá nhân. Có người hỏi vì sao không tiến tới tiệm cận tuổi hưu với tuổi nghề, tuy nhiên tuổi nghề khác tuổi hưu. Ông ví dụ tuổi nghề xiếc chỉ 30 nhưng tuổi hưu tới 60 thì phải đào tạo chuyển đổi nghề. "Chính sách hỗ trợ lao động, đặc biệt là công nhân nữ khi họ còn đi làm quan trọng hơn là chính sách lương hưu", ông Dung hộ kinh doanh bị thu sai BHXH sẽ được đảm bảo quyền lợiĐại biểu Ma Thị Thúy Phó đoàn Tuyên Quang cho rằng việc chậm đóng BHXH gây hệ lụy lớn, đặc biệt hơn lao động bị treo quyền lợi, vậy nguyên nhân tình trạng trên và biện pháp khắc phục là gì? "Dư luận rất bức xúc trước việc chủ hộ bị thu sai BHXH bắt buộc trong thời gian dài. Quan điểm Bộ trưởng thế nào và sẽ xử lý ra sao?", bà Thúy chất vấn. Đại biểu Ma Thị Thúy Phó đoàn Tuyên Quang. Ảnh Media Quốc hội Ông Dung khẳng định cơ quan công quyền làm sai thì phải xin lỗi và xử lý theo quy định. Hiện có ba hướng xử lý Chuyển chủ hộ sang diện đóng bắt buộc; chuyển sang BHXH tự nguyện nếu người đóng đồng ý, không đồng ý thì phải thoái thu. Với quan điểm đảm bảo quyền lợi của chủ hộ, ông Dung nói nên sớm đưa họ vào diện đóng bắt hướng xử lý quyền lợi cho hơn lao động bị trốn đóng BHXH, Bộ trưởng cho hay đã hướng dẫn Bảo hiểm xã hội Việt nam giải quyết theo hướng thu đến đâu tính đến đó. Với những người chuyển doanh nghiệp thì tạo điều kiện chốt sổ để tiếp tục đóng pháp căn cơ là phải sửa Luật Bảo hiểm xã hội sớm trình Quốc hội vào kỳ họp tháng 10 cuối năm 2023. Dự thảo đã bổ sung làm rõ hành vi chậm, trốn đóng vì trốn đóng trước đây được đưa vào Bộ luật Hình sự nhưng chưa xác định rõ. Vì vậy, TP HCM có 84 đơn thư, hồ sơ khởi kiện nhưng chưa xử lý được vụ nào. "Cần áp dụng chế tài mạnh hơn với hành vi này như ngừng hóa đơn, cấm xuất cảnh bởi các biện pháp như hiện nay không có hiệu quả", Bộ trưởng quan đến vấn đề này, đại biểu Huỳnh Thị Phúc Phó đoàn Bà Rịa - Vũng Tàu cho rằng việc thu bảo hiểm bắt buộc sai đối với chủ hộ kinh doanh cho thấy cơ quan bảo hiểm đã thực hiện không đúng quy định pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích người dân. "Việc thu sai đối tượng trong thời gian quá dài, có người đóng 20 năm. Vậy có tiêu cực trong thu BHXH không? Bộ trưởng cho biết trách nhiệm thuộc cơ quan nào, hướng xử lý sai phạm", đại biểu đặt câu hỏi. Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung trả lời chất vấn. Ảnh Phạm Thắng Ông Dung khẳng định việc thu sai BHXH bắt buộc là sai về chủ trương. "Tôi đã báo cáo rất rõ là trách nhiệm thuộc về BHXH Việt Nam và đặc biệt BHXH các địa phương", ông nói, cho biết Bộ đã làm việc với BHXH VIệt Nam đề nghị chấn chỉnh. Thời gian qua, do còn vướng mắc, các trường hợp thu sai chưa được giải quyết. Các địa phương đã xử lý linh hoạt với chủ hộ kinh đoàn kiểm tra của Ban Kinh tế Trung ương cùng Bộ đến các địa phương, có nơi báo cáo 62 trường hợp, nhưng khi kiểm tra thực tế chỉ còn 8 trường hợp. Như vậy đã giải quyết về căn bản."Chúng tôi chưa phát hiện dấu hiệu trục lợi, nhưng sai là có", Bộ trưởng cho hay. Bộ Lao động Thương binh Xã hội dự kiến khi xây dựng pháp luật sẽ đưa nhóm chủ hộ kinh doanh vào diện đóng bảo hiểm bắt buộc. Nếu được Quốc hội cho phép, Chính phủ sẽ thực hiện biện pháp cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho người lao động, trong đó có cộng nối thời gian đóng bảo hiểm nếu người dân có nhu cầu chuyển sang bảo hiểm bắt buộc hoặc tự đưa lao động ra nước ngoài làm việc bằng mọi giáVấn đề đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc cũng được nhiều đại biểu quan tâm. Bà Nguyễn Hồng Hạnh đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp nâng cao chất lượng lao động của người Việt Nam ở nước ngoài?Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài là giải pháp tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, tạo điều kiện cho thanh niên tiếp cận công nghệ, tác phong làm việc mới. Năm 2022, Việt Nam có lao động đi nước ngoài, tập trung ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia. Trong đó, ba nước trả thu nhập cao như Đức Ero, Hàn Quốc USD, Nhật Bản USD, còn các nước khác chỉ 600-700 nước đều đánh giá lao động Việt Nam có ý thức, kỹ năng, hiệu suất công việc tốt, nhưng ngoại ngữ còn kém, tổ chức kỷ luật của một bộ phận không tốt trốn ở lại, đánh nhau, vi phạm pháp luật. "Không đưa lao động đi nước ngoài làm việc bằng mọi giá. Nếu không có môi trường tốt, thu nhập cao thì không đưa. Bộ sẽ xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý lao động đi và về. Người lừa đảo lao động đi nước ngoài sẽ bị xử lý", ông Dung nói. Đại biểu Trần Quang Minh. Ảnh Media Quốc hội Tuy nhiên, đại biểu Trần Quang Minh nói việc lao động Việt Nam bỏ trốn khi làm việc tại nước ngoài ảnh hưởng tới hình ảnh quốc gia và nhiều lao động khác có ý định xuất khẩu. Dù đã có chế tài, tình trạng này vẫn diễn ra ở một số nước là thị trường xuất khẩu lao động sôi động. "Theo Bộ trưởng, cần có giải pháp gì?", ông Minh trưởng Dung cho biết lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài rồi ở lại, không về nước theo đúng thời gian hiện nay không bức xúc bằng năm 2017. Thời điểm đó, ông cũng trả lời chất vấn Quốc hội, đã báo cáo gần 52,5% lao động Việt Nam bỏ trốn tại Hàn Quốc khiến nước này dừng nhận lao động Việt đó, Việt Nam kiên trì thực hiện các giải pháp, phía nước bạn xử lý hình sự những người trốn ở lại. Đến nay, theo yêu cầu của Hàn Quốc, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội dừng xuất khẩu lao động ở 18 huyện của 9 tỉnh có tỷ lệ lao động trốn nhiều, dó đó chỉ còn 24,6% lao động hết hợp đồng không về nay, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung có thêm 20 phút trả lời những vấn đề đại biểu quan tâm. Xem diễn biến chính
Trần Nam Thành huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai hỏi "Căn cứ khoản 2 điều 39 Luật An toàn - Vệ sinh lao động, người lao động NLĐ bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở, tại địa điểm và thời gian hợp lý thì được trợ cấp tai nạn lao động từ người sử dụng lao động NSDLĐ. Trong trường hợp này, có bắt buộc NSDLĐ chi trả chi phí y tế, tiền lương trong thời gian điều trị cho NLĐ hay không?".Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trả lời Căn cứ biên bản điều tra tai nạn, trường hợp xác định NLĐ bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc đến nơi ở theo tuyến đường và thời gian hợp lý, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn thì NSDLĐ trợ cấp cho NLĐ theo quy định tại khoản 2 điều 39 Luật An toàn - Vệ sinh lao động, không quy định bắt buộc NSDLĐ phải chi trả chi phí y tế, tiền lương trong thời gian điều trị. Khuyến khích những thỏa thuận có lợi hơn cho NLĐ theo quy định tại khoản 1 điều 4 Bộ Luật Lao động thuận lợi, đề nghị ông liên hệ Sở Lao động - Thương binh và Xã hội của địa phương để được hướng dẫn chi tiết và trợ giúp pháp lý.
Theo luật lao động hiện hành hiện nay thì tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận. Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác. 1. Quy định về các hình thức trả lương Theo Điều 96 Bộ luật lao động năm 2019 hình thức trả lương được quy định như sau – Người sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận về hình thức trả lương theo thời gian, sản phẩm hoặc khoán. – Lương được trả bằng tiền mặt hoặc trả qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng. – Trường hợp trả lương qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng thì người sử dụng lao động phải trả các loại phí liên quan đến việc mở tài khoản và chuyển tiền lương. Ngoài ra theo Nghị định số 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định cụ thể như sau – Căn cứ vào tính chất công việc và điều kiện sản xuất, kinh doanh, người sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận trong hợp đồng lao động hình thức trả lương theo thời gian, theo sản phẩm và trả lương khoán như sau + Tiền lương theo thời gian được trả cho người lao động hưởng lương theo thời gian, căn cứ vào thời gian làm việc theo tháng, tuần, ngày, giờ theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động, cụ thể + Tiền lương tháng được trả cho một tháng làm việc; + Tiền lương tuần được trả cho một tuần làm việc. Trường hợp hợp đồng lao động thỏa thuận tiền lương theo tháng thì tiền lương tuần được xác định bằng tiền lương tháng nhân với 12 tháng và chia cho 52 tuần; + Tiền lương ngày được trả cho một ngày làm việc. Trường hợp hợp đồng lao động thỏa thuận tiền lương theo tháng thì tiền lương ngày được xác định bằng tiền lương tháng chia cho số ngày làm việc bình thường trong tháng theo quy định của pháp luật mà doanh nghiệp lựa chọn. Trường hợp hợp đồng lao động thỏa thuận tiền lương theo tuần thì tiền lương ngày được xác định bằng tiền lương tuần chia cho số ngày làm việc trong tuần theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động; + Tiền lương giờ được trả cho một giờ làm việc. Trường hợp hợp đồng lao động thỏa thuận tiền lương theo tháng hoặc theo tuần hoặc theo ngày thì tiền lương giờ được xác định bằng tiền lương ngày chia cho số giờ làm việc bình thường trong ngày theo quy định tại Điều 105 của Bộ luật Lao động. + Tiền lương theo sản phẩm được trả cho người lao động hưởng lương theo sản phẩm, căn cứ vào mức độ hoàn thành số lượng, chất lượng sản phẩm theo định mức lao động và đơn giá sản phẩm được giao. + Tiền lương khoán được trả cho người lao động hưởng lương khoán, căn cứ vào khối lượng, chất lượng công việc và thời gian phải hoàn thành. – Tiền lương của người lao động theo các hình thức trả lương quy định tại khoản 1 Điều này được trả bằng tiền mặt hoặc trả qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng. Người sử dụng lao động phải trả các loại phí liên quan đến việc mở tài khoản và chuyển tiền lương khi chọn trả lương qua tài khoản cá nhân của người lao động. 2. Trả lương theo thời gian Trả lương theo thời gian là hình thức trả lương căn cứ vào thời gian làm việc của người lao động. Thời gian làm việc của người lao động bao gồm thời gian thực tế làm việc và thời gian được tính là thời gian làm việc theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của hai bên. Lương theo thời gian bao gồm các loại lương năm, lương tháng, lương tuần, lương ngày và lương giờ. Lương năm là tiền lương trả cho một năm làm việc của người lao động theo mức đo pháp luật quy định hoặc hai bên thỏa thuận trong hợp đồng. Lương tháng là tiền lương trả cho một tháng làm việc của người lao động được xác định theo mức ghi trong hợp đồng lao động hoặc quy định trong thang lương, bảng lương áp dụng cho người lao động đó. Việc thanh toán lương tháng được thực hiện một lần hoặc hai lần trong tháng theo thời gian ấn định trong hợp đồng lao động hoặc đã quy định thống nhất trong đơn vị sử dụng lao động. Lương tuần là tiền lương trả cho một tuần làm việc của người lao động, được tính trên cơ sở lương tháng nhân với 12 tháng và chia cho 52 tuần. Lương ngày là tiền lương trả cho một ngày làm việc của người lao động được xác định trên cơ sở lương tháng chia cho số ngày làm việc tiêu chuẩn trong tháng ủa đơn vị sử dụng lao động nhưng không quá 26 ngày. Lương giờ là tiền lương trả cho một giờ làm việc của người lao động được xác định trên cơ sở tiền lương ngày chia cho số giờ làm việc tiêu chuẩn một ngày của đơn vị nhưng không quá 8 giờ. Về nguyên tắc, lương tuần, lương ngày và lương giờ phải được trả ngay sau tuần, giờ làm việc của người lao động. Hai bên có thể thỏa thuận để trả gộp nhưng chậm nhất 15 ngày người lao động phải được trả lương một lần. Ưu điểm cơ bản của hình thức trả lương theo thời gian là dễ hiểu, dễ tính và dễ thực hiện. Áp dụng hình thức trả lương này người lao động không phải chạy theo số lượng sản phẩm, vì vậy họ có nhiều thời gian hơn để sáng tạo, tích lũy kinh nghiệm, đầu tư cho chất lượng công việc… Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, tiền lương mà người lao động nhận được không liên quan trực tiếp không tương xứng đến sự đóng góp lao động của họ trong một khoảng thòi gian nhất định. Từ đó cho thấy tính chính xác và công bằng của hình thức trả lương này có thể không được đảm bảo. Để khắc phục nhược điểm này, về mặt lí thuyết và thực tiễn chúng ta có thể sử dụng kết hợp giữa việc trả lương và thưởng cho người lao động để khuyến khích sử dụng tối đa sức lao động, nâng cao trách nhiệm với công việc. Vì vậy, việc trả lương theo thời gian có thể thực hiện theo hai cách trả lương theo thời gian đơn giản trả lương theo thời gian thực tế làm việc và trả lương theo thời gian có thưởng gồm tiền lương theo thời gian đơn giản cộng với tiền thưởng. 3. Trả lương theo sản phẩm Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương căn cứ vào số lượng và chất lượng sản phẩm mà người lao động làm ra. Để thực hiện trả lương theo sản phẩm, người sử dụng lao động phải xây dựng định mức khoán sản phẩm cho người lao động trong một đơn vị thời gian nhất định và xác định đơn giá tiền lương trên một đơn vị sản phẩm. Tiền lương của người lao động phụ thuộc trực tiếp vào số lượng sản phẩm mà họ đã sản xuất ra, được người sử dụng lao động chấp nhận và đơn giá tiền lương mà người sử dụng lao động áp dụng cho loại sản phẩm đó. Tiền lương theo sản phẩm cũng được trả theo định kì thời gian, thông thường là theo tháng làm việc của người lao động. Hình thức trả lương theo sản phẩm bao gồm nhiều loại tùy đối tượng hưởng lương và trường hợp khác nhau. Những hình thức tiêu biểu đang được sử dụng hiện nay ở các doanh nghiệp là lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân, lương theo sản phẩm tập thể, lương theo sản phẩm gián tiếp, lương theo sản phẩm có thưởng… Trả lương theo sản phẩm có tác dụng gắn kết người lao động với kết quả công việc. Vì vậy người lao động sẽ tự ý thức được trách nhiệm và quyền lợi của mình từ việc hoàn thành định mức, tang năng suất lao động… Tính chính xác và công bằng trong việc trả lương ở hình thức này cũng dễ dàng được thực hiện hơn so với hình thức trả lương theo thời gian. Song ở hình thức này, việc tính toàn lương và áp dụng khó khan hơn. Bên cạnh đó, có thể người lao động sẽ chạy theo số lượng sản phẩm để đạt mục đích lương cao hơn là tập trung thời gian để phát huy tài năng, tích lũy kinh nghiệm, đầu tư cho chất lượng sản phẩm… Để khắc phục những nhược điểm này, người sử dụng lao động cần xây dựng định mức lao động một cách thật khoa học; tổ chức, phục vụ tốt nơi làm việc để hạn chế tối đa thời gian ngừng việc; tổ chức tốt việc kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm; làm tốt công tác giáo dục ý thức trách nhiệm của người lao động… 4. Trả lương khoán Lương khoán là hình thức trả lương căn cứ vào khối lượng và chất lượng công việc khoán mà người lao động thực hiện. Lương khoán thực chất cũng là một trong những hình thức cụ thể của trả lương theo sản phẩm. Hình thức này áp dụng cho những công việc không thể giao từng chi tiết, từng bộ phận hoặc nếu giao từng chi tiết, từng bộ phận sẽ không hiệu quả mà phải giao toàn bộ khối lượng công việc với những yêu cầu cụ thể về chất lượng cho người lao động thực hiện trong một thời gian nhất định như xây dựng cơ bản. Để thực hiện việc trả lương khoán, người sử dụng lao động cần xác định khối lượng với chất lượng tương ứng công việc khoán cho người lao động, quỹ thời gian thực hiện, quỹ tiền lương kế hoạch cho toàn bộ khối lượng công việc hoặc đơn giá khoán theo đơn vị công việc, như đơn giá cho việc xây 1 mét vuông tường nhà. Nếu công việc khoán kéo dài trong nhiều tháng thì hàng tháng, người sử dụng lao động phải tạm ứng tiền lương cho người lao động tương ứng với khối lượng công việc người lao động đã thực hiện trong tháng. Quy định này phù hợp với đặc điểm của tiền lương là được trả theo định kì thời gian, không phụ thuộc vào hình thức trả lương. Theo Khoản 1 Điều 96 Bộ luật lao động mới nhất 2019, người sử dụng lao động và người lao động thoả thuận về hình thức trả lương theo thời gian, sản phẩm hoặc khoán nêu trên. HÌnh thức trả lương theo thời gian đã chọn phải được suy trì trong thời gian nhất định; trường hợp thay đổi hình thức trả lương, người sử dụng lao động phải thông báo cho người lao động biết trước ít nhất 10 ngày. Ngoài ra luật cũng quy định về nguyên tắc trả lương như sau Hàng tháng người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hợp đặc biệt không thể trả lương đúng thời hạn thì không được chậm quá 01 tháng và người sử dụng lao động phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương.
Cho hỏi người sử dụng lao động có phải trả tiền tương đương mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đang thử việc không? Câu hỏi của chị Ngân đến từ Lâm Đồng. Người sử dụng lao động có phải trả tiền tương đương mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đang thử việc không? Trường hợp người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì xử lý như thế nào? Những trường hợp nào phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc? Người sử dụng lao động có phải trả tiền tương đương mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đang thử việc không?Căn cứ vào tiểu mục 1 Mục I Kết luận 308/CV-PC năm 2022 của Vụ Pháp chế Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có nội dung hướng dẫn về chế độ bảo hiểm đối với người thử việc giao kết hợp đồng thử việc như sauVề các chế độ bảo hiểm đối với người thử việc giao kết hợp đồng thử việc Câu hỏi Trong thời gian làm việc theo hợp đồng thử việc, NSDLĐ có phải trả thêm cùng lúc với kỳ trả lương một khoản tiền cho NLĐ tương đương với mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ theo quy định tại khoản 3 Điều 168 BLLĐ không? Hướng trả lời, hướng dẫn NSDLĐ có nghĩa vụ trả, vì - Căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 1 Điều 3 và khoản 1, khoản 2 Điều 24, Điều 26 BLLĐ thì người thử việc là người lao động hợp đồng thử việc vẫn chứa đầy đủ các yếu tố của quan hệ lao động, người thử việc vẫn được hưởng tiền lương. - Việc áp dụng quy định của khoản 3 Điều 168 BLLĐ đối với người thử việc nhằm bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa 2 nhóm đối tượng là người thử việc giao kết hợp đồng thử việc riêng và người thử việc có nội dung thử việc được ghi trong hợp đồng lao động. Người thử việc có nội dung thử việc ghi trong HĐLĐ được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc', bảo hiểm y tế”, bảo hiểm thất nghiệp. Do đó, người thử việc giao kết hợp đồng thử việc riêng cần được NSDLĐ chi trả thêm cùng lúc với kỳ trả lương một khoản tiền tương đương với mức NSDLĐ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. - Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì người thử việc theo hợp đồng thử việc không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc"; khoản 3 Điều 168 BLLĐ áp dụng cho người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Do đó, người lao động là người thử việc thuộc đối tượng áp dụng của khoản 3 Điều 168 BLLĐ được bảo đảm quyền lợi này. - Khoản 3 Điều 8 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP quy định thời gian thử việc được tính là thời gian NLĐ đã làm việc thực tế cho NSDLĐ để tính trợ cấp thôi việc, nếu trong thời gian này NLĐ chưa được chi trả một khoản tiền tương đương với mức NSDLĐ đóng bảo hiểm thất như nội dung của kết luận trên thì người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ trả một khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế cho người lao động đang thử việc vì dù là người lao động ký hợp đồng thử việc nhưng hợp đồng này vẫn chứa đầy đủ các yếu tố của quan hệ lao động, người thử việc vẫn được hưởng tiền sử dụng lao động có phải trả tiền tương đương mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đang thử việc không?Trường hợp người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì xử lý như thế nào?Căn cứ vào Điều 168 Bộ luật Lao động 2019 quy định như sauTham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp1. Người sử dụng lao động, người lao động phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; người lao động được hưởng các chế độ theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất khích người sử dụng lao động, người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm khác đối với người lao Trong thời gian người lao động nghỉ việc hưởng chế độ bảo hiểm xã hội thì người sử dụng lao động không phải trả lương cho người lao động, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận Đối với người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả thêm cùng lúc với kỳ trả lương một khoản tiền cho người lao động tương đương với mức người sử dụng lao động đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất đó, đối với người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế thì người sử dụng lao động có trách nhiệm trả thêm khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động cùng lúc với thời điểm trả trường hợp nào phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc?Căn cứ vào khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định như sauĐối tượng áp dụng1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồma Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;b Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;c Cán bộ, công chức, viên chức;d Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu;đ Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;e Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí;g Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;h Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương;i Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị vậy, những đối tượng thuộc quy định nêu trên sẽ phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Bảo hiểm xã hội 3154 lượt xem Lưu bài viết Bài viết này có hữu ích với bạn không?
TÀI KHOẢN 334 - PHẢI TRẢ NGƯỜI LAO ĐỘNG Thông tư 200/2014/TT-BTC ✵ ✵ ✵ Nguyên tắc kế toán Kết cấu và nội dung phản ánh của tài khoản Phương pháp hạch toán kế toán ▼về cuối trang Nguyên tắc kế toán Tham khảo Nguyên tắc kế toán các khoản nợ phải trả Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản phải trả và tình hình thanh toán các khoản phải trả cho người lao động của doanh nghiệp về tiền lương, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội và các khoản phải trả khác thuộc về thu nhập của người lao động. ▲về đầu trang Kết cấu và nội dung phản ánh của tài khoản 334 Phải trả người lao động Bên Nợ - Các khoản tiền lương, tiền công, tiền thưởng có tính chất lương, bảo hiểm xã hội và các khoản khác đã trả, đã chi, đã ứng trước cho người lao động; - Các khoản khấu trừ vào tiền lương, tiền công của người lao động. Bên Có - Các khoản tiền lương, tiền công, tiền thưởng có tính chất lương, bảo hiểm xã hội và các khoản khác phải trả, phải chi cho người lao động; Số dư bên Có - Các khoản tiền lương, tiền công, tiền thưởng có tính chất lương và các khoản khác còn phải trả cho người lao động. Số dư bên Nợ nếu có, rất cá biệt - Phản ánh số tiền đã trả lớn hơn số phải trả về tiền lương, tiền công, tiền thưởng và các khoản khác cho người lao động. Tài khoản 334 phải hạch toán chi tiết theo 2 nội dung Thanh toán lương và thanh toán các khoản khác. Tài khoản 334 - Phải trả người lao động có 2 tài khoản cấp 2. - Tài khoản 3341 - Phải trả công nhân viên Phản ánh các khoản phải trả và tình hình thanh toán các khoản phải trả cho công nhân viên của doanh nghiệp về tiền lương, tiền thưởng có tính chất lương, bảo hiểm xã hội và các khoản phải trả khác thuộc về thu nhập của công nhân viên. - Tài khoản 3348 - Phải trả người lao động khác Phản ánh các khoản phải trả và tình hình thanh toán các khoản phải trả cho người lao động khác ngoài công nhân viên của doanh nghiệp về tiền công, tiền thưởng nếu có có tính chất về tiền công và các khoản khác thuộc về thu nhập của người lao động. ▲về đầu trang Phương pháp kế toán một số giao dịch kinh tế chủ yếu a Tính tiền lương, các khoản phụ cấp theo quy định phải trả cho người lao động, ghi Nợ TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang Nợ các TK 622, 623, 627, 641, 642 Có TK 334 - Phải trả người lao động 3341, 3348. b Tiền thưởng trả cho công nhân viên - Khi xác định số tiền thưởng trả công nhân viên từ quỹ khen thưởng, ghi Nợ TK 353 - Quỹ khen thưởng, phúc lợi 3531 Có TK 334 - Phải trả người lao động 3341. - Khi xuất quỹ chi trả tiền thưởng, ghi Nợ TK 334 - Phải trả người lao động 3341 Có các TK 111, 112, ... c Tính tiền bảo hiểm xã hội ốm đau, thai sản, tai nạn, ... phải trả cho công nhân viên, ghi Nợ TK 338 - Phải trả, phải nộp khác 3383 Có TK 334 - Phải trả người lao động 3341. d Tính tiền lương nghỉ phép thực tế phải trả cho công nhân viên, ghi Nợ các TK 623, 627, 641, 642 Nợ TK 335 - Chi phí phải trả đơn vị có trích trước tiền lương nghỉ phép Có TK 334 - Phải trả người lao động 3341. đ Các khoản phải khấu trừ vào lương và thu nhập của công nhân viên và người lao động khác của doanh nghiệp như tiền tạm ứng chưa chi hết, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, tiền thu bồi thường về tài sản thiếu theo quyết định xử lý.... ghi Nợ TK 334 - Phải trả người lao động 3341, 3348 Có TK 141 - Tạm ứng Có TK 338 - Phải trả, phải nộp khác Có TK 138 - Phải thu khác. e Tính tiền thuế thu nhập cá nhân của công nhân viên và người lao động khác của doanh nghiệp phải nộp Nhà nước, ghi Nợ TK 334 - Phải trả người lao động 3341, 3348 Có TK 333 - Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước 3335. g Khi ứng trước hoặc thực trả tiền lương, tiền công cho công nhân viên và người lao động khác của doanh nghiệp, ghi Nợ TK 334 - Phải trả người lao động 3341, 3348 Có các TK 111, 112, ... h Thanh toán các khoản phải trả cho công nhân viên và người lao động khác của doanh nghiệp, ghi Nợ TK 334 - Phải trả người lao động 3341, 3348 Có các TK 111, 112, ... i Trường hợp trả lương hoặc thưởng cho công nhân viên và người lao động khác của doanh nghiệp bằng sản phẩm, hàng hoá, kế toán phản ánh doanh thu bán hàng không bao gồm thuế GTGT, ghi Nợ TK 334 - Phải trả người lao động 3341, 3348 Có TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp 33311. k Xác định và thanh toán các khoản khác phải trả cho công nhân viên và người lao động của doanh nghiệp như tiền ăn ca, tiền nhà, tiền điện thoại, học phí, thẻ hội viên... - Khi xác định được số phải trả cho công nhân viên và người lao động của doanh nghiệp, ghi Nợ các TK 622, 623, 627, 641, 642 Có TK 334 - Phải trả người lao động 3341, 3348. - Khi chi trả cho công nhân viên và người lao động của doanh nghiệp, ghi Nợ TK 334 - Phải trả người lao động 3341, 3348 Có các TK 111, 112, ... ▲về đầu trang
phải trả người lao động